Hỏi and Ngã Tones since the 17 th Century in Chữ Quốc Ngữ and Saigon Accent.
Main Article Content
Abstract
This article deals with the six tones in Vietnamese language since the 17th century via the official Vietnamese alphabet (chữ quốc ngữ). Particularly the intricate hỏi and ngã tones: hỏi tone involves low rising tone (symbol?) and ngã tone involves high broken tone (symbol ~), these tone marks are located above their related vowel sound. Lacking recorded instrumentations, musical notes are the closest and quasi-scientific data that pioneering European missionaries have used to depict these tones (de Rhodes/1651, Manuductio ad Linguam Tunkinensem - MLT). These data show that hỏi tone used to be higher than ngã tone in Tonkin, this trend is completely reversed now (ie. current Hanoi accent). Following data also reveal that Saigon accent did differentiate hỏi and ngã tones (Morrone/1819, Taberd/1838) unlike present situation. A proposed explanation for present Saigon accent is partially from Binh Dinh/Qui Nhon dialects which also show that hỏi tone is higher than ngã tone. The findings suggest further researches in Binh Dinh/Qui Nhon dialects and other possible sources that contribute towards the make-up of present-day Saigon dialect including its specific accent.
Article Details
Keywords
Vietnamese language, ngã tone, hỏi tone, musical note, Hanoi accent, Binh Dinh accent, Saigon accent, the 17 th century
References
Alexandre de Rhodes (1651) (1991). Dictionarium Annamiticum Lusitanum et Latinum (Từ điển Việt-Bồ-La). Bản dịch của Thanh Lãng, Hoàng Xuân Việt, Đỗ Quang Chính. TPHCM: Khoa học xã hội.
Đoàn Thiện Thuật (2007). Ngữ âm tiếng Việt. Hà Nội: Đại học Quốc gia Hà Nội.
Gonçalo Fernandes/Carlos Assunção (2017). First codification of Vietnamese by 17 th century missionaries: the description of tones and the influence of Portuguese on Vietnamese orthography. https://www.persee.fr/doc/hel_0750-8069_2017_num_39_1_3592
Hoàng Thị Châu (1989). Tiếng Việt trên các miền đất nước - Phương ngữ học. Hà Nội: Khoa học xã hội.
Huình Tịnh Paulus Của (1895/1896). Đại Nam quấc âm tự vị. Tome I, II. Saigon: Imprimerie REY, CURIOL & Cie, 4 rue d’Adran.
Jean Louis Taberd (1838). Dictionarium Annamitico-Latinum. Bengale: Serampore
Jean Louis Taberd (1838). Tự điển La Tinh – Việt. Bengale: Serampore
Jessica Bauman, Allison Blodgett, C. Anton Rytting, Jessica Shamoo (2009). The ups and downs of Vietnamese tones - A description of native speaker and adult learner tone systems for Northern and Southern Vietnamese. University of Maryland Center for Advanced Study of Language; https://sealinguist.wordpress.com/wp-content/uploads/2015/04/tto_2118_e-5-the_ups_ and_downs_of_vietnamese_tones_section2.pdf.
Josepho Maria Morrone (khoảng đầu thế kỷ 19). Lexicon Cochin-sinense Latinum, in trong: Peter Stephen Du Ponceau (1838). A Dissertation on the nature and character of the Chinese system of writing. USA: Kessinger Publishing.
Mai Thị Kiều Phượng (2008). Tiếng Việt - Đại cương - Ngữ âm. Hà Nội: Khoa học xã hội
Nguyễn Cung Thông (2023). Loạt bài viết “Tiếng Việt từ thế kỷ 17”, về thanh điệu tiếng Việt, tham khảo “Tiếng Việt thế kỷ 17: cách dùng vợ lẻ, lặng lẻ… vào thế kỷ 17 và những hệ lụy” (phần 38).
Nguyễn Quang Hồng (2015). Tự điển chữ Nôm dẫn giải. Tập 1 và 2. Hà Nội: Khoa học xã hội - Hội Bảo tồn di sản chữ Nôm.
Nguyễn Tài Cẩn (1997). Giáo trình lịch sử ngữ âm tiếng Việt - sơ thảo. Hà Nội: Giáo Dục.
Nguyễn Văn Lợi (2018). Sự hình thành cách ghi thanh điệu chữ Quốc ngữ”, https://vanviet. info/nghien-cuu-phe-binh/su-hnh-thnh-cch-ghi-thanh-dieu-chu-quoc-ngu/ .
Pigneau de Béhaine (1772/1773) (1999). Dictionarium Annamitico-Latinum. Dịch và giới thiệu bởi Nguyễn Khắc Xuyên. TP.HCM: Trẻ.