Tạp chí Khoa học Đại học Đông Á https://js.donga.edu.vn/index.php/daujs <div id="text-124540630" class="text"> <p>Tạp ch&iacute; Khoa học Đại học Đ&ocirc;ng &Aacute; l&agrave; một tạp ch&iacute; trực thuộc Trường Đại học Đ&ocirc;ng &Aacute;.</p> <p>Tạp ch&iacute; được Bộ Th&ocirc;ng tin v&agrave; Truyền th&ocirc;ng cấp Giấy ph&eacute;p hoạt động cho tạp ch&iacute; in:<strong>&nbsp;Số</strong>&nbsp;<strong>625/GP-BTTTT</strong>, ng&agrave;y&nbsp;<strong>22/09/2021.</strong></p> <p>Ng&agrave;y&nbsp;<strong>28/04/2022</strong>, Tạp ch&iacute; được Cục Th&ocirc;ng tin khoa học v&agrave; C&ocirc;ng nghệ Quốc gia, Bộ Khoa học v&agrave; C&ocirc;ng nghệ cấp m&atilde; số chuẩn quốc tế ISSN (International Standard Serial Number) với d&atilde;y số ISSN:&nbsp;<strong>2815-5807.</strong></p> </div> <div id="text-3048248437" class="text"> <p>C&aacute;c lĩnh vực nhận b&agrave;i ch&iacute;nh của Tạp ch&iacute; Khoa học Đại học Đ&ocirc;ng &Aacute; bao gồm:</p> <ul> <li>Khoa học tự nhi&ecirc;n</li> <li>Khoa học kỹ thật v&agrave; c&ocirc;ng nghệ</li> <li>Khoa học y, dược</li> <li>Khoa học n&ocirc;ng nghiệp</li> <li>Khoa học x&atilde; hội</li> <li>Khoa học nh&acirc;n văn</li> </ul> </div> Đại học Đông Á vi-VN Tạp chí Khoa học Đại học Đông Á 2815-5807 Việt Nam: Mô hình để theo đuổi trong phát triển công bằng https://js.donga.edu.vn/index.php/daujs/article/view/370 Bài viết phản ánh quá trình chuyển đổi của Việt Nam từ nền kinh tế kế hoạch hóa sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đồng thời nêu bật những cải cách quan trọng kể từ khi thực hiện chính sách Đổi Mới. Phần thứ hai của bài viết đề cập đến hai câu hỏi cơ bản: Thứ nhất, khám phá những bài học quý giá có thể rút ra từ quá trình Đổi Mới. Thứ hai, xem xét liệu có tồn tại một 'mô hình Việt Nam' đặc biệt hay không. Phần kết luận phân tích những hoàn cảnh đang thay đổi mà Việt Nam hiện phải đối mặt và những thách thức mà đất nước cần vượt qua để tiến xa hơn. Một số chính sách cần thiết cũng được khuyến nghị. Mặc dù đã đạt được những thành tựu đáng kể như chuyển đổi từ một quốc gia nghèo thành quốc gia có thu nhập trung bình và trở thành một trong những nền kinh tế mở cửa nhất thế giới, Việt Nam vẫn đối mặt với nhiều thách thức. Nguy cơ rơi vào 'bẫy thu nhập trung bình' vẫn còn cao, và đất nước cũng đã chịu những hậu quả về môi trường do sự tăng trưởng của mình. Để đảm bảo thành công, cần phải rút ra bài học từ những kinh nghiệm trong quá khứ, nhấn mạnh vào quyết tâm chính trị, cải cách hành chính và hội nhập quốc tế. Nghiên cứu này cũng khám phá khái niệm Mô hình Việt Nam của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, công nhận vai trò của cạnh tranh lành mạnh và vai trò trung tâm của kinh tế nhà nước. Nhìn về phía trước, Việt Nam đặt mục tiêu trở thành nền kinh tế có thu nhập trung bình cao vào năm 2030 và trở thành quốc gia phát triển vào năm 2045. Các hành động chính sách quan trọng bao gồm tăng cường năng lực công, cải thiện khung pháp lý, đẩy nhanh tái cơ cấu, nâng cao phát triển nguồn nhân lực và củng cố Hệ thống Đổi mới Quốc gia để vượt qua 'bẫy thu nhập trung bình' và đạt được các mục tiêu phát triển. Nói chung, Việt Nam cần tiếp tục Đổi Mới. TS Võ Trí Thành Copyright (c) 2024 2024-10-25 2024-10-25 Về vấn đề thay đổi mô hình tăng trưởng: Chính sách tránh bẫy thu nhập trung bình https://js.donga.edu.vn/index.php/daujs/article/view/371 Bài viết thảo luận về khái niệm "bẫy thu nhập trung bình" (MIT) và những tác động của nó đối với Việt Nam. MIT ám chỉ những quốc gia đạt đến một mức thu nhập bình quân đầu người nhất định nhưng gặp khó khăn trong việc tiến xa hơn. Việt Nam đã bước vào nhóm thu nhập trung bình thấp vào năm 2008, với thu nhập quốc dân (GNI) bình quân đầu người đạt 3.560 USD vào năm 2021. Bài thảo luận nhấn mạnh tầm quan trọng của việc chuyển đổi từ tăng trưởng dựa trên đầu vào sang tăng trưởng dựa trên năng suất nhân tố tổng hợp (TFP) và vai trò của cải cách thể chế trong việc duy trì tăng trưởng. Điểm chuyển đổi Lewis cũng được đề cập, nhấn mạnh nhu cầu tăng năng suất để tương xứng với mức lương cao hơn. Để thoát khỏi bẫy thu nhập trung bình và đạt được tăng trưởng dài hạn, Việt Nam cần tập trung vào các chính sách thúc đẩy công nghiệp hóa, hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ (SMEs), cải thiện thị trường yếu tố sản xuất, nâng cao giáo dục và đào tạo, cũng như đầu tư vào nghiên cứu và phát triển (R&D). GS Trần Văn Thọ Copyright (c) 2024 2024-10-25 2024-10-25 Làn sóng mới về chuyển đổi số, cách mạng công nghiệp 4.0, IoT và AI như động lực thúc đẩy Việt Nam https://js.donga.edu.vn/index.php/daujs/article/view/372 Bài viết thảo luận về khái niệm "bẫy thu nhập trung bình" (MIT) và những tác động của nó đối với Việt Nam. MIT ám chỉ những quốc gia đạt đến một mức thu nhập bình quân đầu người nhất định nhưng gặp khó khăn trong việc tiến xa hơn. Việt Nam đã bước vào nhóm thu nhập trung bình thấp vào năm 2008, với thu nhập quốc dân (GNI) bình quân đầu người đạt 3.560 USD vào năm 2021. Bài thảo luận nhấn mạnh tầm quan trọng của việc chuyển đổi từ tăng trưởng dựa trên đầu vào sang tăng trưởng dựa trên năng suất nhân tố tổng hợp (TFP) và vai trò của cải cách thể chế trong việc duy trì tăng trưởng. Điểm chuyển đổi Lewis cũng được đề cập, nhấn mạnh nhu cầu tăng năng suất để tương xứng với mức lương cao hơn. Để thoát khỏi bẫy thu nhập trung bình và đạt được tăng trưởng dài hạn, Việt Nam cần tập trung vào các chính sách thúc đẩy công nghiệp hóa, hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ (SMEs), cải thiện thị trường yếu tố sản xuất, nâng cao giáo dục và đào tạo, cũng như đầu tư vào nghiên cứu và phát triển (R&D). Nguyễn Anh Dương Copyright (c) 2024 2024-10-25 2024-10-25 Chính sách tự chủ và thích ứng chiến lược của Việt Nam trong thời kỳ mới https://js.donga.edu.vn/index.php/daujs/article/view/373 Trong bối cảnh căng thẳng địa chính trị leo thang, kinh tế thế giới tăng trưởng chậm, cạnh tranh gay gắt giữa các nước lớn nhằm xác lập vị trí và vai trò trong trật tự quốc tế mới, việc tìm hiểu, phân tích và dự báo được chính xác những tác động của những diễn biến và xu thế mới trong môi trường bên ngoài tới sự phát triển kinh tế của Việt Nam, trên cơ sở đó đề xuất những điều chỉnh kịp thời và chủ động về định hướng phát triển, về động lực tăng trưởng của kinh tế Việt Nam, v.v. là những chủ đề nghiên cứu có giá trị lý luận và thực tiễn cao, góp phần làm tăng tính tự chủ và thích ứng chiến lược của Việt Nam trong tình hình mới nhiều biến động khó đoán định. Đồng thời, việc đánh giá những tác động của cạnh tranh chiến lược Mỹ-Trung, cơ hội và thách thức từ sự chuyển đổi mô hình sản xuất mới chất lượng cao của Trung Quốc, sự dịch chuyển chuỗi cung ứng và chuỗi sản xuất ở khu vực, tham vọng thiết lập một sân chơi và luật lệ riêng cả về hợp tác kinh tế, thương mại, đầu tư công nghệ cao do Trung Quốc dẫn dắt v.v. đối với kinh tế Việt Nam cũng là những nghiên cứu quan trọng, có ý nghĩa thiết thực đối với việc thực hiện các mục tiêu phát triển bền vững của Việt Nam từ nay tới năm 2045. TS Đinh Thị Hiền Lương Copyright (c) 2024 2024-10-25 2024-10-25 Làm thế nào để đối phó với căng thẳng địa chính trị? Quan điểm từ Việt Nam và ASEAN https://js.donga.edu.vn/index.php/daujs/article/view/374 Bài viết cho rằng việc hợp tác giữa các cường quốc tầm trung ủng hộ thương mại và ASEAN là rất quan trọng để duy trì các hoạt động kinh tế trong bối cảnh căng thẳng ngày càng gia tăng giữa Mỹ và Trung Quốc. Đầu tiên, bài viết giải thích về sự phức tạp của các chính sách liên quan đến địa chính trị, những chính sách này ảnh hưởng đến cách thiết kế và vận hành chuỗi cung ứng toàn cầu. Sau đó, bài viết xem xét các tác động kinh tế của hai chính sách lớn là chiến tranh thuế quan và kiểm soát xuất khẩu công nghệ cao, dựa trên một số nghiên cứu thực tế đã có. Một số hệ quả không mong muốn từ các chính sách gần đây như tăng sự bất ổn về chính sách và làm suy yếu hệ thống thương mại dựa trên luật pháp cũng được phân tích, đồng thời đưa ra các giải pháp chính sách khả thi. Cuối cùng, bài viết thảo luận về cách Việt Nam và ASEAN nên đối phó với căng thẳng địa chính trị hiện nay. Fukunari Kimura Copyright (c) 2024 2024-10-25 2024-10-25 Gia tăng bất ổn và điều chỉnh FDI - Tác động đối với Việt Nam https://js.donga.edu.vn/index.php/daujs/article/view/375 Đóng góp của đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) cho tăng trưởng kinh tế đã được ghi nhận rộng rãi. FDI mở rộng thị trường cho các sản phẩm cuối cùng, tạo ra các việc làm có mức lương cao hơn, và thúc đẩy chuyển giao công nghệ cũng như lan tỏa tri thức, từ đó khuyến khích đổi mới sáng tạo và nâng cao năng suất. Trong hơn ba thập kỷ, từ năm 1990 đến 2015, dòng FDI toàn cầu đã tăng hơn mười lần, từ 204 tỷ USD lên hơn 2 nghìn tỷ USD. Tuy nhiên, từ đó đến nay, tổng FDI đã có xu hướng giảm. Trong giai đoạn từ 2015 đến 2023, FDI toàn cầu đã trải qua hai đợt suy giảm, lần đầu vào năm 2018 với khoảng 1,3 nghìn tỷ USD và lần thứ hai vào năm 2020 với 984 tỷ USD. Trong cùng thời kỳ, thế giới cũng đã trải qua những thay đổi lớn trong bối cảnh chính trị. Các cú sốc như căng thẳng thương mại Mỹ-Trung, Brexit, đại dịch coronavirus, và xung đột ở Ukraine đã góp phần gia tăng sự bất ổn, dẫn đến các phản ứng chính sách hướng tới tăng cường chủ nghĩa bảo hộ, tái định hình khu vực, và tái cấu trúc chuỗi giá trị toàn cầu. Một số nghiên cứu về sự bất ổn và thương mại cũng như FDI đã tìm thấy bằng chứng về việc chuyển hướng thương mại tích cực sang các nước thứ ba để đối phó với sự gia tăng đối đầu kinh tế. Ngoài ra, đã có nhiều thảo luận về việc tái định vị FDI, khi các công ty đa quốc gia (MNEs) hoặc quay trở lại nước chủ nhà hoặc chuyển cơ sở sản xuất sang các quốc gia khác. Việt Nam thường được coi là hưởng lợi từ xu hướng mới nổi này nhờ vào vị trí địa lý thuận lợi, lực lượng lao động phổ thông tương đối rẻ và dồi dào, cũng như môi trường kinh doanh ngày càng cải thiện. Tuy nhiên, một số nghiên cứu đã chỉ ra rằng có thể có tác động tiêu cực đối với các nước thứ ba khi xem xét các liên kết trong chuỗi giá trị, vì các tác động tiêu cực của cú sốc bên ngoài có thể được truyền tải dọc theo chuỗi giá trị. Để đối phó với những ưu và nhược điểm này, cần có một cách tiếp cận thực tế để giảm thiểu tác động tiêu cực trong khi tận dụng hiệu quả làn sóng mới. Trong bối cảnh này, nghiên cứu có ba mục tiêu chính. Thứ nhất, chúng tôi ghi nhận những thay đổi trong mô hình đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) toàn cầu từ năm 2015 đến 2023 bằng cách sử dụng cơ sở dữ liệu bao gồm các dự án FDI ở cấp độ công ty trên toàn thế giới, với trọng tâm là FDI vào Việt Nam và các đối tác thương mại quan trọng của nước này. Thứ hai, chúng tôi xem xét mối quan hệ nhân quả giữa sự bất ổn gia tăng và FDI. Cuối cùng, chúng tôi thảo luận về những hệ quả của những thay đổi này đối với quá trình hội nhập kinh tế của Việt Nam. Đoàn Thị Thanh Hà Copyright (c) 2024 2024-10-25 2024-10-25 FDI và chuyển giao công nghệ cho các doanh nghiệp Việt Nam https://js.donga.edu.vn/index.php/daujs/article/view/376 Báo cáo cung cấp một phân tích chuyên sâu về sự phát triển của đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) tại Việt Nam, theo dõi hành trình của nó từ những năm 1980. Việt Nam đã chủ động thu hút FDI nhằm thu hẹp khoảng cách về vốn và công nghệ, mang lại những lợi ích thiết thực như tạo việc làm và mở rộng xuất khẩu. FDI đã dẫn đến sự chuyển đổi của các cơ cấu kinh tế lỗi thời, đặc biệt là trong các doanh nghiệp nhà nước. Sự mở rộng của FDI được thúc đẩy bởi chính sách ngoại giao và các hiệp định thương mại tự do của Việt Nam, bao gồm việc gia nhập WTO vào năm 2007 và tham gia vào nhiều FTA khác nhau. Tính đến cuối năm 2020, Việt Nam đã thu hút được 176,9 tỷ USD FDI, định vị mình là một điểm đến đầu tư hấp dẫn ở Đông Nam Á. Nghiên cứu này nhấn mạnh cách các giai đoạn phát triển FDI khác nhau đã định hình nền kinh tế Việt Nam, tạo cơ hội việc làm và thúc đẩy công nghiệp hóa dựa vào xuất khẩu. Nó cũng nhấn mạnh nhu cầu tiếp tục chuyển đổi sang các ngành công nghiệp đòi hỏi công nghệ và vốn cao, đồng thời củng cố các ngành công nghiệp hỗ trợ để đảm bảo tăng trưởng bền vững. Ryo Ikebe Copyright (c) 2024 2024-10-25 2024-10-25 Phát triển ngành sản xuất của Việt Nam: Đặt trọng tâm vào lĩnh vực điện tử và ô tô https://js.donga.edu.vn/index.php/daujs/article/view/377 Việt Nam đã nổi lên như một nhân tố quan trọng trong ngành sản xuất toàn cầu và đang cải thiện thứ hạng năng lực cạnh tranh công nghiệp. Việt Nam cũng đã thành công trong việc duy trì tỷ trọng đóng góp ngày càng tăng của ngành sản xuất vào sự phát triển kinh tế. Nghiên cứu này phân tích các sáng kiến chiến lược và khung chính sách quốc gia đã thúc đẩy sự phát triển này, với trọng tâm là hai lĩnh vực công nghiệp chủ chốt: điện tử và ô tô. Ngành công nghiệp điện tử, được thúc đẩy bởi đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đáng kể từ các tập đoàn đa quốc gia, đã đưa Việt Nam trở thành trung tâm sản xuất lớn cho các tập đoàn công nghệ toàn cầu. Những yếu tố chính góp phần vào sự chuyển đổi này bao gồm các ưu đãi đầu tư của quốc gia, chi phí sản xuất cạnh tranh và các hiệp định thương mại toàn diện giúp tăng cường khả năng tiếp cận thị trường. Đồng thời, ngành ô tô đang trải qua một sự chuyển đổi đáng kể, được thúc đẩy bởi cả các doanh nghiệp trong nước và các quan hệ đối tác quốc tế. Các chính sách của chính phủ nhằm thúc đẩy năng lực sản xuất trong nước và hỗ trợ các ngành công nghiệp phụ trợ đã tạo điều kiện cho việc nội địa hóa các thành phần và linh kiện. Nghiên cứu cũng thảo luận về những thách thức mà ngành sản xuất nói chung và hai lĩnh vực này nói riêng đang phải đối mặt, chẳng hạn như các điểm yếu trong chuỗi cung ứng, phát triển các ngành công nghiệp phụ trợ, và nhu cầu nâng cấp công nghệ, đồng thời nêu bật những cơ hội tăng trưởng trong tương lai. Thông qua việc phân tích các xu hướng thống kê, nghiên cứu cung cấp một cái nhìn tổng quan toàn diện về những phát triển đang diễn ra trong ngành sản xuất của Việt Nam, đưa ra những góc nhìn về tiềm năng phát triển của ngành trong thị trường toàn cầu. Cuối cùng, nghiên cứu nhấn mạnh tầm quan trọng của cơ sở hạ tầng vững chắc, liên kết giữa FDI và ngành công nghiệp phụ trợ trong nước, và sự hỗ trợ về quy định trong việc định vị Việt Nam như một trung tâm quan trọng trong ngành công nghiệp điện tử và ô tô. Nguyễn Thị Xuân Thúy Copyright (c) 2024 2024-10-25 2024-10-25 Nguồn cung năng lượng và nền kinh tế xanh https://js.donga.edu.vn/index.php/daujs/article/view/380 Bài viết thảo luận về chính sách năng lượng của Việt Nam. Để đạt được mục tiêu trở thành quốc gia có thu nhập cao vào năm 2045 và đạt được sự trung hòa carbon hoàn toàn vào năm 2050 hoặc 2060, Việt Nam nhận thức được tầm quan trọng của các nguồn năng lượng bền vững, bao gồm năng lượng tái tạo và các công nghệ đổi mới như hydro và công nghệ thu giữ, sử dụng và lưu trữ carbon (CCUS). Chương này dự báo Tổng Nhu cầu Năng lượng Cuối cùng (TFEC) sẽ tăng đáng kể, được thúc đẩy bởi mức tăng trưởng GDP hàng năm 5,2%. Đặc biệt, cường độ năng lượng trên mỗi đơn vị GDP dự kiến sẽ cải thiện, cho thấy mô hình tiêu thụ năng lượng hiệu quả hơn. Chú trọng được đặt vào việc giảm sự phụ thuộc vào nhập khẩu năng lượng thông qua việc nâng cao hiệu quả năng lượng và tiết kiệm (EEC), tăng cường sử dụng năng lượng tái tạo và chuyển đổi từ than đá sang khí tự nhiên để sản xuất điện. Việc thúc đẩy năng lượng tái tạo, kết nối lưới điện, sản xuất hydro từ than đá với công nghệ CCUS. Han Phoumin Copyright (c) 2024 2024-10-25 2024-10-25 Biến đổi khí hậu ở Việt Nam https://js.donga.edu.vn/index.php/daujs/article/view/378 Nghiên cứu cung cấp một cái nhìn sâu sắc về biến đổi khí hậu và giảm thiểu rủi ro thiên tai ở Việt Nam. Việt Nam đang trải qua những tác động của biến đổi khí hậu, với nhiệt độ gia tăng và mô hình lượng mưa thay đổi ảnh hưởng đến nông nghiệp, tài nguyên nước và nhiều lĩnh vực khác. Các khu vực ven biển và đồng bằng dễ bị tổn thương đang đối mặt với mối đe dọa từ sự gia tăng mực nước biển. Việt Nam đã phải gánh chịu tổn thất kinh tế đáng kể do biến đổi khí hậu, ảnh hưởng đến các ngành như nông nghiệp, giao thông vận tải và thủy sản, đồng thời làm gián đoạn chuỗi cung ứng toàn cầu và làm tăng chi phí cho các doanh nghiệp. Để đối phó với những thách thức này, Việt Nam đã cam kết đạt được mức phát thải khí nhà kính bằng 0 vào năm 2050, chống phá rừng vào năm 2030 và giảm phát thải methane. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều thách thức, bao gồm việc cần có chính sách thích ứng với khí hậu mạnh mẽ hơn, đầu tư từ khu vực tư nhân, cải cách các doanh nghiệp nhà nước và tăng cường khả năng chống chịu của hệ thống tài chính. Sự hợp tác với Nhật Bản, quốc gia có kinh nghiệm trong thích ứng với khí hậu là một gợi ý. Việc phát triển các kế hoạch hành động theo từng ngành để tăng cường khả năng chống chịu với khí hậu cũng được khuyến nghị, bao gồm các lĩnh vực như nông nghiệp, cơ sở hạ tầng, công nghiệp, khu vực ven biển và các thành phố thông minh. Venkatachalam Anbumozhi Copyright (c) 2024 2024-10-25 2024-10-25 Chuyển đổi sang nền kinh tế tuần hoàn tại Việt Nam https://js.donga.edu.vn/index.php/daujs/article/view/379 Nghiên cứu thảo luận về nền kinh tế tuần hoàn ở Việt Nam. Luật Bảo vệ Môi trường năm 2020 của Việt Nam định nghĩa kinh tế tuần hoàn là một mô hình nhằm giảm thiểu nguyên liệu thô, kéo dài tuổi thọ sản phẩm, giảm phát sinh chất thải và hạn chế tác động đến môi trường. Để thực hiện nền kinh tế tuần hoàn, các biện pháp bao gồm từ chối các sản phẩm có hại, sửa chữa, tái sử dụng, tái sản xuất và giảm tiêu thụ tài nguyên. Khu vực công và các bên liên quan trong các ngành công nghiệp đóng vai trò quan trọng trong việc tạo ra một hệ sinh thái tuần hoàn. Các công nghệ số như công nghệ di động, phân tích dữ liệu lớn và in 3D có thể thúc đẩy các thực hành kinh tế tuần hoàn. Chính sách và khung pháp lý của Việt Nam về kinh tế tuần hoàn bao gồm các chính sách của chính phủ, chiến lược và các quy định pháp luật. Một số sáng kiến và mô hình hiện có nhưng đang đối mặt với thách thức về tính bền vững. Các khuyến nghị để thúc đẩy kinh tế tuần hoàn tại Việt Nam bao gồm thiết lập hệ thống pháp luật toàn diện, xây dựng kế hoạch hành động quốc gia có sự tham gia của doanh nghiệp và tất cả các bên liên quan, và thúc đẩy hợp tác với Nhật Bản để chia sẻ kinh nghiệm và các thực hành tốt nhất. Phạm Ánh Huyền Copyright (c) 2024 2024-10-25 2024-10-25 Hợp tác công nghiệp Nhật Bản - Việt Nam https://js.donga.edu.vn/index.php/daujs/article/view/381 Bài viết thảo luận về tương lai của hợp tác công nghiệp giữa Nhật Bản và Việt Nam. Mối quan hệ Nhật Bản - Việt Nam đã có những bước tiến đáng kể, đặc biệt trong ngoại giao cấp cao. Các chuyến thăm cấp cao và các tuyên bố chung đã vạch ra sự hợp tác trong nhiều lĩnh vực, bao gồm phục hồi kinh tế sau đại dịch COVID-19, khả năng chống chịu của chuỗi cung ứng, chuyển đổi số, đa dạng hóa cơ sở sản xuất và hỗ trợ các ngành công nghiệp. Trong kỷ nguyên số, hướng hợp tác công nghiệp bao gồm sự đổi mới công nghệ mạnh mẽ thông qua các công nghệ số, chuỗi cung ứng chống chịu và phát triển nguồn nhân lực công nghiệp mới. Sự chú trọng mở rộng đến việc thiết lập cơ sở hạ tầng cho một xã hội số, tự do di chuyển dữ liệu và giải quyết các vấn đề về tính bền vững và quyền con người trong chuỗi cung ứng. Ngành ô tô và các ngành hỗ trợ sẽ là chủ đề trọng tâm của hợp tác, với tiềm năng phát triển và tăng trưởng kinh tế hơn nữa ở Việt Nam. Fusanori Iwasaki Copyright (c) 2024 2024-10-25 2024-10-25 Tổng kết https://js.donga.edu.vn/index.php/daujs/article/view/382 Báo cáo đưa ra các khuyến nghị chính sách. Việt Nam đã duy trì tỷ lệ tăng trưởng kinh tế cao kể từ đầu những năm 1990, nhờ vào các cải cách kinh tế và sự mở cửa với thế giới. Tăng trưởng thu nhập quốc dân thực (GNI) bình quân đầu người hàng năm đã liên tục ở mức khoảng 5,0% từ năm 1995 đến 2019, vượt trội hơn nhiều so với các nền kinh tế phát triển. Để đạt được trạng thái thu nhập cao vào năm 2045, tỷ lệ tăng trưởng hàng năm phải tăng lên 5,4%, yêu cầu phải nâng cao năng suất và cải tiến công nghiệp. Kinh tế cần chuyển đổi từ tăng trưởng dựa trên đầu vào sang tăng trưởng dựa trên đổi mới sáng tạo, nhấn mạnh vào vốn nhân lực, hiệu quả thị trường lao động và vốn, cạnh tranh và ứng dụng công nghệ. Công nghệ số đóng vai trò then chốt trong quá trình chuyển đổi này. Các ngành công nghiệp chính như điện tử, nông nghiệp tiên tiến, dệt may, các lĩnh vực liên quan đến chuyển đổi số (DX), ô tô, chăm sóc sức khỏe và năng lượng dự kiến sẽ đóng góp vào tăng trưởng kinh tế và nền kinh tế tuần hoàn. Hợp tác với Nhật Bản, đặc biệt trong lĩnh vực Chuyển đổi số (DX), mang lại tiềm năng đáng kể để tiến gần hơn tới mục tiêu đạt được trạng thái quốc gia thu nhập cao vào năm 2045. Thêm vào đó, nên theo đuổi các sáng kiến hợp tác trong nhiều lĩnh vực, bao gồm ngành công nghiệp ô tô, nông nghiệp tiên tiến, giảm thiểu biến đổi khí hậu, nền kinh tế tuần hoàn, và giải quyết các thách thức do xã hội già hóa. Yasuhiro Yamada Copyright (c) 2024 2024-10-25 2024-10-25